Giới thiệu về Triết gia Ken Wilber
Thiền Tự Giác
Giới thiệu về Triết Gia Ken Wilber với Triết học Tích Phân Dung Hợp và Lý Thuyết Vạn Pháp
22:23:19 17/12/2020
Kenneth Earl Wilber II (sinh ngày 31 tháng 1 năm 1949) là một nhà triết học và nhà tâm lý học chuyển vị người Mỹ với lý thuyết triết học Dung hợp của riêng ông, một triết lý có hệ thống gợi ý sự tổng hợp tất cả kiến thức và kinh nghiệm của con người vào cùng một hệ thống.
Tiểu sử
Wilber sinh năm 1949 tại thành phố Oklahoma, tiểu bang Oklahoma, Hoa Kỳ. Năm 1967, ông đăng ký làm sinh viên dự bị y khoa tại Đại học Duke. Giống như nhiều người trong thế hệ của mình, ông được truyền cảm hứng bởi văn học phương Đông, đặc biệt là Đạo Đức Kinh. Ông rời ĐH Duke và đăng ký học tại Đại học Nebraska tại Lincoln, nhưng sau vài năm thì bỏ học để dành toàn bộ thời gian cho việc nghiên cứu chương trình học và viết sách của riêng mình.
Năm 2011 Wilber tuyên bố rằng từ lâu ông đã mắc phải hội chứng mệt mỏi mãn tính, có thể do bệnh thiếu hụt enzyme RNase gây ra.
Năm 1973, Wilber hoàn thành cuốn sách đầu tiên của mình, Trường Phổ Ý Thức (The Spectrum of Consciousness), trong đó ông tìm cách tích hợp kiến thức từ các lĩnh vực khác nhau. Sau khi bị hơn hai mươi nhà xuất bản từ chối, cuốn sách cuối cùng đã được nhà xuất bản Quest Books chấp nhận vào năm 1977, và ông đã dành một năm để thuyết trình và hội thảo trước khi quay lại với công việc viết lách. Ông cũng đã giúp ra mắt tạp chí ReVision vào năm 1978.
Năm 1982, Thư viện Khoa học Mới (New Science Library) đã xuất bản tuyển tập Mô thức Ba chiều và Những Nghịch lý khác (The Holographic Paradigm and Other Paradoxes) của ông, một bộ sưu tập các bài luận và bài phỏng vấn, trong đó có một bài của David Bohm. Các bài luận, bao gồm một bài của chính ông, đã xem xét Mô thức và mô hình ảnh ba chiều liên quan đến các lĩnh vực ý thức, thần bí và khoa học.
Năm 1983, Wilber kết hôn với Terry "Treya" Killam, cô không lâu sau đó được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú. Từ năm 1984 đến năm 1987, Wilber đã từ bỏ phần lớn việc viết lách để chăm sóc cho vợ. Killam qua đời vào tháng 1/1989; trải nghiệm những năm tháng này của họ đã được ghi lại trong cuốn Tiểu thuyết tiêu đề Grace và Grit xuất bản năm 1991.
Năm 1987, Wilber chuyển đến sinh sống ở thành phố Boulder, tiểu bang Colorado, nơi ông phát triển lý thuyết bộ ba Kosmos của mình và giám sát công việc của Viện triết học Dung hợp (Integral Institute). Wilber hiện sống ở thành phố Denver, tiểu bang Colorado, Hoa Kỳ.
Sau đó Wilber viết cuốn Tình dục - Sinh thái - Tâm linh (Sex, Ecology, Spirituality) xuất bản năm 1995, tập đầu tiên trong Bộ ba Kosmos của ông. Cuốn Lược sử Vạn Vật (A Brief History of Everything) xuất bản năm 1996 là bản tóm tắt của cuốn Tình dục, Sinh thái, Tâm linh ở dạng phỏng vấn. Cuốn Con mắt của Linh hồn (The Eye of Spirit) xuất bản năm 1997 là một tập hợp các bài báo mà ông đã viết cho tạp chí ReVision về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo. Trong suốt năm 1997, ông đã lưu giữ các ghi chép nhật ký về những trải nghiệm riêng, sau này được tập hợp và được xuất bản vào năm 1999 với tên gọi One Taste, một thuật ngữ chỉ ý thức nhất thể. Trong hai năm tiếp theo, nhà xuất bản Shambhala Publications, đã phát hành tám tập được biên tập lại các nghiên cứu của ông thành một Tuyển Tập. Năm 1999, ông hoàn thành cuốn Tâm lý học Dung hợp (Integral Psychology) và viết cuốn Lý thuyết Vạn Vật (A Theory of Everything) xuất bản năm 2000. Trong tác phẩm Lý thuyết Vạn Vật , Wilber cố gắng kết nối kinh doanh, chính trị, khoa học và tâm linh và chỉ ra cách chúng tích hợp với các lý thuyết về tâm lý học phát triển, chẳng hạn như động lực học xoắn ốc (Spiral Dynamics). Cuốn tiểu thuyết của ông, Boomeritis xuất bản năm 2002, cố gắng phơi bày những gì ông coi là chủ nghĩa ích kỷ của thế hệ dân số bùng nổ (baby boomer sinh ra trong 20 năm sau thế chiến II). Cuốn Ken Wilber: Tư duy là đam mê (Ken Wilber: Thought as Passion) của Frank Visser xuất bản năm 2003, cuốn sách hướng dẫn tư tưởng của Wilber, được Daryl S. Paulson ca ngợi là “sự tổng hợp xuất sắc các tác phẩm đã xuất bản của Wilber thông qua sự tiến hóa tư duy theo thời gian. Cuốn sách sẽ có giá trị đối với bất kỳ sinh viên triết học dung hợp hoặc nhà nhân bản học siêu cá nhân nào không muốn đọc tất cả các tác phẩm của Wilber để hiểu thông điệp của ông"."Visser đã thực hiện một công việc đáng ngưỡng mộ khi điều hướng người đọc thông qua các lý thuyết của Wilber", Sullivan nói.
Năm 2012, Wilber tham gia Ban Cố vấn của Tổ chức Chính sách Đồng bộ Quốc tế (International Simultaneous Policy Organization) nhằm tìm cách chấm dứt tình trạng bế tắc thông thường trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu thông qua một chính sách đồng bộ quốc tế.
Lý thuyết Triết học Tích phân
Trên cùng bên trái “Tôi” Nội tâm cá nhân Cố ý VD: Freud |
Trên cùng bên phải "Nó" Ngoại cảnh cá nhân Hành vi VD: Skinner |
Dưới cùng bên trái "Chúng ta" Nội tâm tập thể Văn hóa VD: Gadamer |
Dưới cùng bên phải "Chúng nó" Ngoại cảnh tập thể Xã hội VD: Marx |
Tất cả các góc phần tư của mô hình AQAL (Mọi Góc Mọi Đường) là khung cơ bản của lý thuyết triết học dung hợp. Lý thuyết này mô hình hóa kiến thức và kinh nghiệm của con người với hình bốn góc phần tư, dọc theo các trục "nội tâm - ngoại cảnh" và "cá nhân - tập thể". Theo Wilber, đó là một cách tiếp cận toàn diện đối với thực tại, một siêu lý thuyết (metatheory) cố gắng giải thích cách mà mọi học thuật và mọi kiến thức và mọi kinh nghiệm đều có thể hoàn toàn phù hợp và có thể kết hợp với nhau một cách mạch lạc.
AQAL dựa trên bốn khái niệm cơ bản và một danh mục: bốn Góc, một số Tầng và Đường phát triển, một số Trạng Thái của ý thức và các "Loại" hay những chủ đề không sắp xếp được vào Góc, Tầng, Đường, Trạng Thái. "Tầng" là các giai đoạn phát triển, từ tiền cá nhân thông qua cá nhân đến siêu cá nhân. "Đường" phát triển là các lĩnh vực khác nhau có thể tiến triển không đồng đều qua các giai đoạn khác nhau. "Trạng thái" là trạng thái của ý thức; theo Wilber, một người có thể có trải nghiệm tạm thời của giai đoạn phát triển tâm thức cao. "Loại" là một phạm trù còn lại, dành cho các hiện tượng không phù hợp với bốn khái niệm kia. Để một bản miêu tả Kosmos được hoàn chỉnh cho bất kỳ một chủ đề gì, Wilber tin rằng bản đó phải bao gồm cả năm loại này. Đối với Wilber, chỉ một bản miêu tả như vậy mới có thể được gọi chính xác là theo đúng triết học "dung hợp". Trong bài luận, "Trích đoạn C: Cách chúng ta cùng tồn tại" (Excerpt C: The Ways We Are in This Together), Wilber mô tả AQAL là "một cấu trúc được đề nghị của Kosmos". (Kosmos là tính toàn diện của một chủ đề, không phải Cosmos: Vũ trụ vì Ken cho rằng bản thân khái niệm Vũ trụ Cosmos vẫn chưa toàn thể)
Đỉnh cao của mô hình này là nhận thức vô tướng (formless awareness), "cảm giác đơn giản của bản thể" (thấy được tự tánh - kiến tánh), được đánh giá tương đồng với hàng loạt khái niệm "tối thắng" từ nhiều truyền thống của phương đông. Nhận thức vô tướng này vượt qua thế giới hiện tượng, cuối cùng chỉ còn là sự hiển thị của một trạng thái thực tại siêu việt. Theo Wilber, các phân loại AQAL - góc, tầng, đường, trạng thái và loại - mô tả sự thật tương đối của học thuyết hai chân lý của Phật giáo (Chân lý tại thế gian và Chân lý xuất thế gian). Wilber cho rằng không cái nào đúng theo nghĩa tuyệt đối. Chỉ có nhận thức vô tướng, "cảm giác đơn giản của bản thể", là tồn tại tuyệt đối.
Những ý tưởng khác
Huyền học và chuỗi hiện hữu vĩ đại
Một trong những mối quan tâm chính của Wilber là lập bản đồ cái mà ông gọi là "triết học vĩnh hằng mới” (neo-perennial philosophy). Đây sự tích hợp một số quan điểm của chủ nghĩa thần bí (huyền học) được điển hình bởi triết học vĩnh hằng (Perennial Philosophy) của Aldous Huxley với sự tường thuật về sự tiến hóa vũ trụ giống với quan điểm của nhà thần bí Ấn Độ Sri Aurobindo. Ông bác bỏ hầu hết các nguyên lý của Chủ nghĩa vĩnh hằng và quan điểm phản tiến hóa liên quan đến lịch sử như một sự thụt lùi từ các kỷ hoặc chu kỳ sinh diệt của vũ trụ (yuga) trong quá khứ. Thay vào đó, ông chấp nhận một quan niệm phương Tây truyền thống hơn về chuỗi hiện hữu vĩ đại. Như trong tác phẩm của Jean Gebser, chuỗi vĩ đại này (hay "tổ") vẫn luôn tồn tại trong khi tương đối mở ra trong suốt biểu hiện vật chất này, mặc dù đối với Wilber "... “Tổ Lớn”' thực ra chỉ là một trường tiềm năng hình thái học rộng lớn ... " Triết học của Wilber tán thành Phật giáo Đại thừa và Vệ Đà Nhất Nguyên (Advaita Vedanta), ông tin rằng thực tại cuối cùng là sự kết hợp phi phàm của tính không (emptiness) và hình thức, với hình thức bẩm sinh có thể phát triển và tiến hóa theo thời gian.
Thuyết chân lý
Wilber tin rằng những truyền thống huyền học của thế giới cung cấp khả năng tiếp cận và kiến thức về một thực tại siêu việt tồn tại vĩnh hằng, giống nhau trong mọi thời đại và mọi nền văn hóa. Mệnh đề này làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống khái niệm của ông, và là một giả định bất khả tư nghị. Wilber gắn liền sự khái quát này với chủ nghĩa duy vật đơn giản, trình bày đây là mô thức chính của khoa học thông thường.
|
Nội tâm |
Ngoại cảnh |
Cá nhân |
Tiêu chuẩn: Chân thực (ngôi thứ nhất) (chân thành, chính trực, đáng tin cậy) |
Tiêu chuẩn: Sự thật (ngôi thứ ba) (Tương quan, đại diện, xác nhận) |
Tập thể |
Tiêu chuẩn: Sự công bằng (ngôi thứ hai) (phù hợp văn hóa, đúng mực, hiểu biết lẫn nhau) |
Tiêu chuẩn: Phù hợp chức năng (ngôi thứ ba) (lý thuyết hệ thống mạng lưới, chủ nghĩa chức năng cấu trúc, lưới hệ thống xã hội) |
Trong các công trình sau này của mình, Wilber lập luận rằng thực tế hiển hiện bao gồm bốn miền và mỗi miền, hay "góc phần tư", có tiêu chuẩn chân lý riêng hoặc có cách thử nghiệm tính hợp lệ riêng.
-
"Nội tâm cá nhân/ngôi thứ nhất": thế giới chủ quan, lĩnh vực chủ quan cá nhân;
-
"Nội tâm tập thể/ngôi thứ 2": không gian giao thoa, nền tảng văn hóa;
-
“Ngoại cảnh cá nhân/ngôi thứ 3”: trạng thái khách quan của sự việc;
-
"Ngoại cảnh tập thể/ngôi thứ 3": sự phù hợp về chức năng, "cách các thực thể hòa hợp với nhau trong một hệ thống"
Tiền/xuyên ngụy biện
Wilber tin rằng nhiều tuyên bố về các trạng thái phi lý trí đã mắc sai lầm mà ông gọi là tiền/xuyên ngụy biện. Theo Wilber, các giai đoạn không hợp lý của ý thức (cái mà Wilber gọi là giai đoạn "tiền hợp lý" và "xuyên hợp lý") có thể dễ bị nhầm lẫn với nhau. Theo quan điểm của Wilber, người ta có thể rút ra nhận thức tâm linh xuyên hợp lý thành hồi quy tiền hợp lý, hoặc người ta có thể nâng các trạng thái tiền hợp lý đến vùng xuyên hợp lý. Ví dụ, Wilber tuyên bố rằng Freud và Jung phạm phải sai lầm này. Freud coi nhận thức thần bí là một sự thụt lùi đối tới một trạng thái ý thức thời thơ ấu. Wilber cáo buộc rằng Freud do đó đã phạm phải một sai lầm của ngụy biện giảm bớt. Wilber cho rằng Jung đã phạm phải một sai lầm tương tự khi coi những huyền học tiền hợp lý là phản ánh của nhận thức tâm linh. Tương tự như vậy, các trạng thái tiền hợp lý có thể bị xác định nhầm là trạng thái hậu hợp lý. Wilber tự mô tả mình là nạn nhân của tiền/xuyên ngụy biện trong các tác phẩm ban đầu của mình.
Quan điểm của Wilber về khoa học
Wilber miêu tả trạng thái hiện tại của khoa học “cứng nhắc” là giới hạn khoa học trong “phạm vi nhỏ hẹp” vì chỉ cho phép bằng chứng từ cõi thấp nhất của ý thức, cảm giác (ngũ giác và phần mở rộng của chúng). Wilber nhìn nhận khoa học theo nghĩa rộng được đặc tả bằng sự liên quan đến ba bước sau:
-
quy định cụ thể một thí nghiệm
-
thực hiện thí nghiệm và quan sát kết quả, và
-
kiểm tra kết quả với những người khác đã thực hiện thuần thục cùng một thí nghiệm.
Ông đã trình bày những điều này như là "ba sợi dây kiến thức vững chắc" trong Phần III của cuốn Hôn nhân của Giác quan và Linh hồn (The Marriage of Sense and Soul).
Cái mà Wilber gọi là "khoa học rộng" sẽ bao gồm bằng chứng từ logic, toán học và từ các lĩnh vực biểu tượng, thông diễn học và các lĩnh vực khác của ý thức. Cuối cùng và lý tưởng nhất thì khoa học rộng sẽ bao gồm cả lời chứng của những người thiền định và những người thực hành tâm linh. Quan niệm riêng của Wilber về khoa học bao gồm cả khoa học hẹp và khoa học rộng, ví dụ, sử dụng máy điện não đồ và các công nghệ khác để kiểm tra kinh nghiệm của những người thiền định và những người thực hành tâm linh khác, tạo ra cái mà Wilber gọi là "khoa học toàn diện".
Theo lý thuyết của Wilber, khoa học hẹp thắng tôn giáo hẹp, nhưng khoa học rộng thắng khoa học hẹp. Có nghĩa là, khoa học tự nhiên cung cấp một bản tường thuật chính xác và bao trùm hơn về thực tế hơn bất kỳ truyền thống tôn giáo công khai nào. Nhưng một cách tiếp cận toàn diện sử dụng tính tổng hợp để đánh giá cả tuyên bố tôn giáo và tuyên bố khoa học sẽ đưa ra một bản miêu tả đầy đủ hơn về thực tế, hơn là khoa học hẹp.
Wilber đã đề cập đến Stuart Kauffman, Ilya Prigogine, Alfred North Whitehead, và những người khác để nói rõ sự hiểu biết theo thuyết sức sống và mục đích luận của ông về thực tại, vốn mâu thuẫn sâu sắc với những kiến thức tổng hợp về tiến hóa hiện đại.
Nghiên cứu hiện tại
Năm 2005, tại buổi ra mắt Trung tâm Tâm Linh Tích phân (Integral Spiritual Center), một chi nhánh của Viện Triết học Tích phân, Wilber đã trình bày bản tóm tắt sơ lược dài 118 trang về hai cuốn sách sắp xuất bản của ông. Bài tiểu luận có tựa đề "Tâm linh Tích phân là gì?", và chứa một số ý tưởng mới bao gồm Tích phân hậu siêu hình và Ma trận Wilber-Combs. Năm 2006, ông xuất bản cuốn "Tâm linh Tích phân" (Integral Spirituality) trong đó ông trình bày chi tiết về những ý tưởng này, cũng như những ý tưởng khác như Chủ nghĩa đa nguyên phương pháp luận Tích phân cũng như lộ trình tiến hóa và phát triển của tôn giáo.
"Tích phân hậu siêu hình" là thuật ngữ mà Wilber đặt cho những nỗ lực của ông nhằm tái tạo lại các truyền thống tôn giáo-tâm linh của thế giới theo cách giải thích cho những chỉ trích hiện đại và hậu hiện đại đối với những truyền thống đó.
Ma trận Wilber-Combs là một mô hình ý thức khái niệm được phát triển bởi Wilber và Allan Combs. Ma trận này là một lưới với các trạng thái ý thức tuần tự trên trục x (từ trái sang phải) và với các cấu trúc phát triển hoặc các cấp độ của ý thức trên trục y (từ dưới lên trên). Ma trận này minh họa cách mỗi cấu trúc của ý thức diễn giải trải nghiệm về các trạng thái khác nhau của ý thức, bao gồm cả các trạng thái thần bí, theo những cách khác nhau.
Wilber đã thu hút rất nhiều tranh cãi từ năm 2011 đến nay khi ủng hộ Marc Gafni. Gafni bị giới truyền thông buộc tội tấn công tình dục trẻ vị thành niên. Trên thực tế, Wilber đã công khai ủng hộ Gafni trên blog của mình. Một bản kiến nghị do một nhóm Rabbis khởi xướng đã kêu gọi Wilber công khai tách khỏi Gafni.
Wilber nằm trong ban cố vấn của công ty Mariana Bozesan's AQAL Capital GmbH, doanh nghiệp có trụ sở tại Munich, CHLB Đức chuyên đầu tư vào các lĩnh vực được đánh giá bằng phương pháp triết học tích phân và các mô hình dựa trên Lý thuyết Tích phân của Wilber.
Wilber chịu ảnh hưởng của những trường tư tưởng nào
Triết học của Wilber bị ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung quán tông (Madhyamaka), đặc biệt là được trình bày rõ ràng trong triết lý của Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna). Wilber đã thực hành nhiều hình thức thiền định Phật giáo khác nhau, học (tuy nhiên trong thời gian ngắn) với một số giảng sư, bao gồm Dainin Katagiri, Taizan Maezumi, Chogyam Trungpa Rinpoche, Kalu Rinpoche, Alan Watts, Penor Rinpoche và Chagdud Tulku Rinpoche. Vệ Đà Nhất Nguyên, Trika (Kashmir), Đạo Shiva, Phật giáo Tây Tạng, Thiền tông, Ramana Maharshi và Andrew Cohen đều có thể được đề cập đến như những ảnh hưởng lớn. Wilber đã nhiều lần chọn tác phẩm của Adi Da để khen ngợi cao nhất trong khi bày tỏ sự dè dặt về Adi Da với tư cách là một giáo viên. Trong cuốn Tình dục, Sinh thái học, Tâm linh, Wilber đề cập nhiều đến triết lý của Plotinus, mà ông coi là phi phàm. Trong khi Wilber đã thực hành các phương pháp thiền định của Phật giáo, ông không tự nhận mình là một Phật tử.
Theo Frank Visser, quan niệm của Wilber về bốn góc phần tư, hay các chiều của sự tồn tại rất giống với quan niệm của E. F. Schumacher về bốn lĩnh vực tri thức. Visser nhận thấy quan niệm của Wilber về các cấp độ, cũng như cách phê bình khoa học của Wilber là một chiều, rất giống với quan niệm trong cuốn Sự thật bị lãng quên (Forgotten Truth) của Huston Smith. Visser cũng viết rằng các khía cạnh bí truyền trong lý thuyết của Wilber dựa trên triết lý của Sri Aurobindo cũng như các nhà lý luận khác bao gồm cả Adi Da.
Thế giới đón nhận lý thuyết của Wilber như thế nào
Wilber được phân loại vào nhóm Thời đại Mới do ông nhấn mạnh vào quan điểm siêu cá nhân và gần đây, tạp chí Publishers Weekly đã gọi ông là "Hegel của tâm linh phương Đông".
Wilber được ghi nhận là người đã mở rộng sức hấp dẫn của một "triết lý vĩnh hằng" đến với nhiều đối tượng hơn. Các nhân vật văn hóa khác nhau như Bill Clinton, Al Gore, Deepak Chopra, Richard Rohr, và nhạc sĩ Billy Corgan đã đề cập đến ảnh hưởng của ông. Paul M. Helfrich ghi nhận ông với "sự hiểu biết sớm rằng trải nghiệm siêu việt không chỉ là bệnh lý, và nếu được phát triển đúng cách có thể mang lại nhiều thông tin cho sự phát triển của con người". Tuy nhiên, cách tiếp cận của Wilber đã bị chỉ trích là phân loại và khách quan một cách thái quá, theo chủ nghĩa nam tính, thương mại hóa tâm linh, và bôi nhọ cảm xúc. Các nhà phê bình trong nhiều lĩnh vực viện dẫn các vấn đề với cách diễn giải của Wilber và trích dẫn không chính xác từ các nguồn khác nhau của ông, cũng như các vấn đề về văn phong với sự lặp lại vô cớ, độ dài cuốn sách quá mức và cường điệu.
Frank Visser viết rằng cuốn sách Trường phổ Ý thức (The Spectrum of Consciousness) năm 1977 của ông đã được các nhà tâm lý học siêu cá nhân ca ngợi, tuy nhiên những sự ủng hộ dành cho ông "ngay cả trong các giới siêu cá nhân" đã suy yếu vào đầu thập niên 1990. Edward J. Sullivan lập luận, trong bài đánh giá của ông về cuốn hướng dẫn tư tưởng Ken Wilber: Tư duy là đam mê (Ken Wilber: Thought as Passion) của Visser, rằng trong lĩnh vực nghiên cứu sáng tác, "kết hợp các hành trình của cuộc đời với lý thuyết trừu tượng của Wilber có thể cung cấp một mô hình viết 'cá nhân-học thuật' chiết trung và đầy thách thức", nhưng "giáo viên dạy viết có thể chỉ trích các giả định tổng hợp quá thường xuyên của ông". Sullivan cũng nói rằng tổng thể cuốn sách của Visser tạo ấn tượng rằng Wilber "nên suy nghĩ nhiều hơn và xuất bản ít hơn".
Steve McIntosh ca ngợi công việc của Wilber nhưng cũng cho rằng Wilber không phân biệt được "triết học" với tôn giáo Vệ Đà và Phật giáo của riêng mình. Christopher Bache khen ngợi một số khía cạnh trong tác phẩm của Wilber, nhưng cho rằng phong cách viết của Wilber là không ổn.
Bác sĩ tâm thần học Stanislav Grof đã ca ngợi kiến thức và công việc của Wilber ở những khía cạnh cao nhất; tuy nhiên, Grof đã chỉ trích việc bỏ sót các lĩnh vực trước và cận sinh trong trường phổ ý thức của Wilber, và việc Wilber bỏ qua tầm quan trọng tâm lý của sinh tử trong sinh học. Grof đã mô tả các bài viết của Wilber có một "phong cách luận chiến thường hung hăng bao gồm các cuộc tấn công mạnh mẽ từ quảng cáo và không có lợi cho cuộc đối thoại cá nhân. Phản ứng của Wilber là các truyền thống tôn giáo thế giới không chứng thực tầm quan trọng mà Grof gán cho cận sinh (perinatal).